Kỹ thuật trồng và chăm sóc ca cao
(Theobroma cacao)
Ca cao có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau như đất đỏ bazan, đất feralit vàng phát triển trên đá trầm tích, đất tro núi lửa, đất cát.... Nhìn chung cây ca cao thích hợp với loại đất có tầng canh tác dày, ít nhất là 1,5 m, dễ thoát nước, có cấu trúc tốt, giữ được ẩm, giàu chất dinh dưỡng.
1. Mật độ và khoảng cách
Trên nền đất tốt, tương đối bằng phẳng trồng với khoảng cách 3 x 3 m (mật độ 1.110 cây/ha) hoặc 3 x 3,5 m (mật độ 952 cây/ha). Trên đất dốc, độ phì kém trồng với khoảng cách 3 x 2,5 m, tức mật độ 1,330 cây/ha.
2. Thời vụ trồng
Tùy từng điều kiện thời tiết khí hậu mà chọn thời vụ trồng cho thích hợp, tốt nhất là trong mùa mưa. Ở Tây Nguyên thời vụ trồng tốt nhất bắt đầu từ tháng 6, các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ thời vụ trồng tháng 10 trong năm.
3. Đào hố, bón phân
- Đào hố kích thước: 50 x 50 x 50 cm, đất mặt và đất sâu để riêng.
- Bón lót: mỗi hố bón 10 – 15 kg phân chuồng hoai + 0,5 kg phân lân Đầu Trâu. Trộn đều phân với lớp đất mặt rồi lấp vào đầy hố, bón trước khi trồng khoảng 2 tuần trở lên.
4. Xử lý mối trước khi trồng
Mối là đối tượng côn trùng phá hoại đặc biệt nghiêm trọng trên ca cao trồng mới và kiến thiết cơ bản. Một số loại thuốc hóa học mới có hiệu lực trừ mối tương đối cao như Admire và Confidor, pha nồng độ 0,1 – 0,2%, phun đều dưới hố và thành hố vài ngày trước khi trồng. Sau trồng 1 tháng phun lại lần 2, cần phun thuốc xung quanh hố và toàn bộ cây.
5. Trồng ca cao
Cây ca cao không chịu được nước đọng, do vậy không nên trồng âm như cây cà phê, mà chỉ trồng ngang bằng mặt đất. Khi trồng móc hố sâu khoảng 30 cm, dùng dao rạch túi bầu PE, đặt bầu cây ca cao giữa hố và mặt bầu ngang với mặt đất, lấp đất xung quanh và dùng tay ấn nhẹ, tránh làm vỡ bầu.
6. Trồng cây che bóng, che gió
Cây ca cao con chỉ cần 25 – 50% ánh sáng, do vậy cây cần được che bóng trong năm trồng mới và trong thời kỳ kiến thiết cơ bản để đảm bảo tỷ lệ cây sống và cây con sinh trưởng tốt. Trong điều kiện Tây Nguyên thường có gió mạnh và nắng gắt trong mùa khô nên việc che bóng, chắn gió là kỹ thuật bắt buộc. Khi cây đã trưởng thành loại bỏ dần bóng mát và có thể đi đến loại bỏ hoàn toàn tùy thuộc vào điều kiện thâm canh. Để tăng thu nhập, có thể chọn trồng các loại cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây lấy dầu hay cây dược liệu (chôm chôm, sầu riêng, bơ, quế, hoa hoè...) để trồng xen trong vườn ca cao làm cây che bóng lâu dài.
7. Bón phân cho cây ca cao
Ở Tây Nguyên nếu trồng ca cao trên đất bazan với mật độ 1.110 cây/ha, cần bón phân Đầu Trâu với liều lượng sau:
Năm tuổi Loại phân Liều lượng (kg/cây)
Năm thứ 1 NPK 20-20- 15 Đầu Trâu 0,2 – 0,3
Năm thứ 2 NPK 20-20-15 Đầu Trâu 0,5 – 0,6
Năm thứ 3 NPK 20-20-15 Đầu Trâu 0,6 – 0,8
Năm thứ 4 NPK 15-10-15 Đầu Trâu 1,2 – 1,5
Các năm kinh doanh NPK 15-10-15 1,5 - 2
Lượng phân trên được chia làm ba đợt (đầu, giữa và cuối mùa mưa), đợt một: 30%, đợt hai: 40%, đợt ba: 30%.
Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao chủ yếu phân bố ở tầng đất mặt (80% rễ tập trung ở tầng 0 – 15 cm) nên cần bón phân trong tầng đất mặt. Rải phân theo đường chiếu của vanh tán, nên xới nhẹ và lấp đất để giảm bớt thất thoát do rửa trôi và bay hơi.
8. Cắt cành tạo hình
Cũng như cây cà phê, cây ca cao cũng cần cắt cành tạo hình mới cho năng suất cao và ổn định.
- Thời kỳ kiến thiết cơ bản chỉ để mỗi cây có 1 – 2 thân chính và loại bỏ những cành vượt, cành yếu. Nếu trồng cây ghép cần đặc biệt chú trọng loại bỏ các chồi nằm dưới vết ghép.
Thời kỳ kinh doanh: hàng năm cần cắt bỏ những cành đâm ngược, những cành sà đồng thời cắt bỏ những cành yếu, cành khô, cành sâu bệnh. Thường 1 năm cắt cành khoảng 3 lần.
9. Tưới nước
Trong năm trồng mới, vào mùa khô nên tưới nước cho cây ca cao giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt. Lượng nước tưới khoảng 50 – 100 lít/gốc/đợt, chu kỳ tưới khoảng 20 – 25 ngày. Khi bước vào thời kỳ kinh doanh, giao tán kín, cây có khả năng chịu hạn khá, không cần tưới nước vẫn đảm bảo sinh trưởng và cho năng suất khá. Tuy vậy, các thí nghiệm tưới nước thực hiện ở các vùng trồng ca cao trên thế giới cho thấy tưới 1 – 2 lần với lượng nước tưới khoảng 100 – 150 lít/gốc sẽ làm cho sinh trưởng và năng suất của cây tốt hơn nhiều.
10. Phòng trừ sâu bệnh
- Sâu hại: các loại sâu ăn lá, bọ xít muỗi, bọ cánh cứng... dùng các loại thuốc Suprathion, Sherpa, Karate, Actara...
- Bệnh nấm hồng: dùng validacin 1,2 – 1,5% Anvil, Tilt 0,2 – 0,3%, chú ý phun mặt dưới lá.
- Bệnh thối quả: là loại bệnh rất nghiêm trọng trên cây ca cao, bệnh phát triển mạnh trong mùa mưa. Biện pháp phòng trừ tốt nhất là vệ sinh đồng ruộng, thu gom các quả bệnh, cành bệnh mang ra khỏi vườn và đốt bỏ. Mùa mưa cần rong tỉa cây che bóng cho thông thoáng. Phun Ridomil, Alliette 0,2 – 0,3%. Phun 3 – 4 lần trong mùa mưa.
Tác giả: Tôn Nữ Tuấn
Tài liệu khác: Nguồn từ phòng NN&PTNT Đạ Hoai
QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG CA CAO
TRÊN ĐẠI BÀN HUYỆN ĐẠ HUOAI
Phòng NN &PTNT huyện Đạ Huoai)
Tài liệu do phòng Nông nghiệp &PTNT huyện Đạ Huoai biên soạn dựa vào tài liệu kỹ thuật trồng ca cao của TS. Phạm Hồng Đức Phước - Giảng viên Trường Đại học Nông Lâm HCM – Phó Ban điều phối phát triển ca cao Quốc gia và một số kinh nghiệp rút ra từ thực hiện mô hình ca cao dưới tán rừng tại
Cây ca cao trồng thích hợp trên các vùng có lượng mưa hàng năm từ 1500m - 2500m, có cao độ so với mặt biển dưới 800m, sinh trưởng phát triển tốt ở nhiệt độ tối đa khoảng 30 – 320C và tối thiểu khoảng 18 – 210C. Cây bị thiệt hại nghiêm trọng ở nhiệt độ dưới 100C hoặc dưới 150C nếu kéo dài. Ẩm độ thích hợp cho cây phát triển khoảng 70 - 80%.
Lá ca cao có cuống dài, phiến lá rộng nên nếu bị gió lay liên tục sẽ bị tổn thương cơ giới, nhất là lá non. Những vùng gió mạnh và kéo dài, nhất thiết phải trồng cây chắn gió. Có vài nơi trồng ca cao không trồng cây che bóng hoặc có nhưng đốn bỏ khi ca cao có tán thì bị thất bại mà nguyên nhân chính trong trường hợp này là do gió.
Cây ca cao có thể phát triển trên nhiều địa hình và loại đất khác nhau, từ các vùng triền dốc, đất cát, đất phù sa ven sông, đất phù sa cổ bạc màu nếu có bóng che và đầy đủ nước tưới. Ca cao chịu được trên vùng đất có pH từ 5 - 8 nhưng tối ưu khoảng 5,5 - 6,7.
Ca cao không thích hợp các chân đất ngập úng, khó thoát nước. Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản ca cao cần phải tưới đầy đủ trong mùa khô. Ca cao chủ yếu ra hoa và phát triển trái trong mùa mưa. Tuy nhiên, nếu được tưới trong mùa khô năng suất sẽ cao và cây cho trái quanh năm, những nơi thiếu nước mùa khô nên cắt bỏ trái để giữ sức cho cây.
Cây ca cao sinh trưởng tốt dưới bóng râm do đó có thể trồng xen trong vườn điều, điều, chuối, cây ăn trái có tán thưa, tán rừng thưa. Đối với các vườn điều, cây ăn trái, vườn tạp không hiệu quả có thể trồng xen ca cao. Cây che bóng được tỉa hợp lý khi ca cao phát triển.
Việc chọn giống ca cao rất quan trọng, chọn giống không đúng sẽ dẫn đến thiệt hại lâu dài. Hiện nay bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã chính thức công nhận 8 dòng vô tính do Đại Học Nông Lâm HCM khảo nghiệm để trồng trên toàn quốc. Các dòng vô tính đó là: TD1, TD2, TD3, TD5, TD6, TD8, TD10 và TD14. Tất cả 8 dòng vô tính này đều cho loại hạt nằm trong nhóm A1 (có chất lượng cao nhất) nếu chăm sóc đúng kỹ thuật.
Các dòng TD trên đã được trồng khảo nghiệm trên địa bàn huyện Đạ Huoai, và tại mô hình phát triển ca cao bền vững dưới tán rừng xã Phước Lộc đã trồng các dòng TD3, TD5, TD8, TD10 cho thấy cay ca cao sinh trưởng và phát triển tốt.
CANH TÁC CÂY CA CAO
Che bóng cho cây ca cao là yếu tố quyết định sự thành công trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, chưa bảo đảm được bóng che thì chưa nên trồng ca cao. Cây không được che bóng sẽ bị cháy lá, cháy thân cục bộ, chùn ngọn, chậm lớn, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây phân cành sớm, lá rụng sớm. Yêu cầu độ che bóng cho cây con khoảng 50-75% ánh sáng mặt trời trực tiếp.
Đối với trồng thuần thì cây che bóng phải được trồng khoảng 6 - 12 tháng trước khi trồng ca cao. Đối với Đạ Huoai, theo quy hoạch chỉ khuyến cáo trồng xen ca cao trong những vườn điều, vườn cây cây ăn trái, vườn tạp, rừng nghèo đã tỉa thưa trong điều kiện chủ động được nước tưới.
Khoảng cách trồng thích hợp là 3 x 3 mét. Thông thường nếu xen với điều, dừa mật độ có thể từ 600 - 700 cây/ha.
Ca cao trồng trên vùng cao cần đào hố với kích cỡ 40 x 40 x 50 cm. Ở những vùng thấp có mực thuỷ cấp cao cần phải trồng bằng mặt hoặc lên mô để tránh nước đọng vào mùa mưa. Lân, vôi, phân chuồng cần đưa vào hố ủ ngay sau khi đào ít nhất một tháng trước khi trồng cây.
Trước khi trồng cần xử lý hố trồng với các thuốc trừ sâu như Basudin10H trộn đều với lượng phân bón lót hoặc Confidor, Admire, Lentrek, Pyrinex, Mapy, Lorsban phun dưới đáy và quanh thành hố trước khi đặt cây vào nhằm tránh mối, sùng đất, các loại sâu hại cây.
Sau khi trồng xong cần phun thuốc trên mặt đất xung quanh hố và toàn thân cây để phòng trị mối, côn trùng chích hút và ăn lá.
Để cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây ca cao trong thời gian đầu, chúng ta nên trộn chung vào đất hỗn hợp phân bón gồm 100 gam super lân + 50 gram phân NPK20-15-20 + phân hữu cơ để lấp đầy hố trồng và quanh bầu cây. Các loại phân lân vi sinh như KOMIX cũng rất tốt để dùng bón lót.
Nên chọn trồng những cây ghép có tối thiểu 8 lá trưởng thành, phát triển đều, màu xanh đậm và chiều cao của cành ghép phải lớn hơn 25cm tính từ vị trí ghép, cây khoẻ, thân không dị dạng.
Những cây có lá non mới hình thành không nên đem trồng ngay, mà chờ khi các lá non đã thuần thục để trồng đợt tiếp theo. Tuổi cây con thích hợp để đem trồng là 4 - 6 tháng với chiều cao khoảng 30 - 50cm. Mua cây con vận chuyển từ xa về phải được chăm sóc ít nhất 1 tuần và tưới đẫm nước trước khi đem trồng; Cần nhẹ nhàng khi vận chuyển, tránh cây bị sốc mạnh làm long gốc, dập lá và tổn thương bộ rễ.
Mỗi vườn trồng (hoặc mỗi hộ nông dân nhận cây giống) ít nhất phải được 3 dòng (trong 8 dòng ca cao nói trên) và mỗi dòng ít nhất là 5 % trở lên trong tổng số cây.
Trên hố trồng đã bón lót và xử lý, bới hố trồng lớn hơn đường kính bầu cây ghép. Dùng dao bén cắt bỏ phần đáy bầu từ 1-2cm và phần rễ cái bị cong (nếu có). Đặt nguyên bầu đất đã cắt đáy vào hố sao cho thân cây thẳng đứng, vị trí mắt ghép cao hơn miệng hố khoảng 2-3cm. Lấp đất chung quanh bầu, nén nhẹ và từ từ kéo bịch nhựa ra khỏi bầu đất.
Những nơi khô hạn, hoặc nơi đất rút nước nhanh cần làm bồn để tưới. Đối với đất khó rút nước phải khơi rãnh tránh úng.
Cố định cây vừa trồng để tránh gió lay và để cho cây mọc thẳng, tưới nước ngay sau khi trồng và nhất thiết phải được tủ gốc với đường kính khoảng 0,8-1m và cách vị trí gốc ghép độ 5-10cm, để giữ ẩm và phòng chống mấm bệnh cho cây.
Nếu chưa đủ bóng che, cần che phụ bằng bất kỳ vật liệu nào có sẵn miễn là có thể cản được 50 - 75% ánh sáng trực tiếp. Nên trồng cây vào sáng sớm hoặc chiều mát.
Sau khi trồng, tỷ lệ cây chết có thể lên đến 10% hoặc cao hơn nếu gặp hạn và mối. Kiểm tra vườn thường xuyên để phát hiện cây chết và trồng dặm lại ngay. Thường sau một năm mật độ cây phải hoàn chỉnh. Nếu để lâu, cây trồng dặm không đủ sức cạnh tranh với những cây đã lớn.
Mô hình trồng xen cây ca cao trong vườn điều, vườn cây ăn trái và vườn tạp trên địa bàn huyện Đạ Huoai như sau:
8m
|
2,5m
|
3m
|
8m
|
Cây ca cao trồng xen |
Cây Điều, cây ăn trái, cây vườn tạp đã khép tán |
Nguồn nước tưới có thể từ sông hồ hay nước giếng không bị nhiễm mặn hay phèn. Tưới theo hàng hay tưới từng cây nhưng không nên tưới giữa lúc trời nắng gắt. Khi cây còn non cần tránh để vòi nước phun thẳng vào cây vì có thể gây đổ ngã. Nên kết hợp bón phân trước khi tưới thì hiệu quả của việc bón phân sẽ cao.
Tuỳ theo điều kiện, có thể xây dựng hệ thống tưới nhỏ giọt để tiết kiệm nước, công lao động và tăng hiệu quả phân bón.
Tủ gốc là biện pháp tốt để giữ ẩm độ đất ổn định, duy trì sự hoạt động hữu hiệu của tầng rễ ngang sát mặt đất, giảm số lần tưới, tránh cỏ mọc vào mùa khô và hạn chế đất văng do mưa, hạn chế sự phát tán mầm bệnh nằm trong đất.
Cách 1: Dùng phânhữu cơ kết hợp với hóa học
Năm
|
Phân hóa học (g/gốc)
|
Phân hữu cơ (kg/gốc) |
Số lần bón/năm |
Thứ nhất |
150 - 200g NPK (16:16:8) |
3 – 10kg
|
4 lần
|
Thứ hai |
300 - 400g NPK (16:16:8) |
5 – 10kg
|
4 lần
|
Thứ ba |
500 – 600g NPK (16:16:8) |
10 – 15kg
|
3 lần
|
Thứ tư |
800 – 1.000g NPK (16:16:8) |
> 15kg
|
3 lần
|
Năm
|
Phân hữu cơ (kg/gốc)
|
Số lần bón
|
Thứ nhất
|
0,5– 1,5 kg
|
2 lần
|
Thứ hai
|
1,5 – 2 kg
|
2 lần
|
Thứ ba
|
2 – 3 kg
|
2 lần
|
Những năm sau: cây bắt đầu vào giai đoạn kinh doanh, tùy theo năng suất và tính chất đất đai, có thể tăng giảm lượng phân cho phù hợp đảm bảo cân đối được lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi để tạo quả cùng với sự mất mát do các yếu tố môi trường tác động vào.
Trong những năm đầu, phân bón cần chôn quanh gốc nhưng khi cây đã giao tán và vào thời kỳ kinh doanh chỉ cần rải trên mặt đất, sau đó phủ đậy bằng lá mục vốn có sẵn trong tất cả các vườn ca cao.
Lưu ý: Lượng phân bón trên được chia ra bón nhiều lần trong mùa mưa hoặc đều quanh năm nếu được tưới chủ động bằng bơm, tự chảy, nhỏ giọt. Tuy nhiên, có hai thời điểm cây đặc biệt cần phân bón là lúc vừa hình thành trái và trước khi thu hoạch hai tháng.
Trong những năm đầu khi cây ca cao còn nhỏ cần phải làm cỏ sạch để tránh nơi côn trùng ẩn nấp và sự cạnh tranh dinh dưỡng. Việc làm sạch cỏ có thể tiến hành thủ công, dùng máy cắt hoặc dùng thuốc trừ cỏ Glyphosate. Khi sử dụng thuốc tránh phun dính vào lá hay phần thân ca cao còn xanh.
Việc tỉa cành tạo tán nhằm điều chỉnh cây phát triển cân đối, cành vươn đều mọi hướng để nhận được ánh sáng nhiều nhất, tán lá phải toả kín không gian dành riêng cho từng cây và không có những lỗ hổng trong tán cây, dưới tán lá phải thông thoáng để giảm thiểu sâu bệnh, chiều cao cây hợp lý để dễ chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch.
Kỹ thuật tạo hình, tạo tán còn tuỳ thuộc vào cây trồng từ hạt, hay cây ghép. Hiện nay trên địa bàn huyện Đạ Huoai chủ yếu trồng bằng cây ghép.
Do mầm ghép lấy từ cành ngang nên cây phát triển theo dạng bụi có nhiều thân. Các nhánh phụ ở phần gốc, chồi vượt, cành bị che khuất hay mọc hướng xuống cần được tỉa bỏ để tạo sự thông thoáng cho cây, nhằm hạn chế sâu bệnh, kích thích ra hoa và tiện cho việc chăm sóc thu hoạch. Tỉa bỏ hoàn toàn các cành từ vị trí 0,75 – 1,0m cách mặt đất khi cây vào giai đoạn kinh doanh.
Tạo hình cây ghép cần tiến hành từ từ và thường xuyên, tránh để thân/cành lộ ra ánh sáng trực tiếp trong thời gian dài sau khi tỉa.
Khi cây ca cao lớn, cây che bóng (điều, cây ăn quả, cây rừng…) nên giữ lại từ 70 đến 120 cây/ha tuỳ theo dạng cây. Không nên tỉa bỏ đột ngột ảnh hưởng đến sinh trưởng ca cao. Sau khi cây ca cao đã khép tán, nên giữ bóng che ở mức 25% giúp sinh thái trong vườn ổn định và còn có tác dụng làm giảm tốc độ gió, tránh sự tổn thương của lá non; giới hạn sự cạnh tranh nước và phân bón của cây che bóng bằng cách chặt bớt rễ, tỉa bớt cành hoặc lột một phần vỏ trên thân của cây che bóng.
Sau đợt tỉa cành chính, cuối vụ thu hoạch, một lượng lớn thân lá lưu lại trên vườn. Lớp hữu cơ này làm giảm xói mòn rửa trôi đất trong mùa mưa, tăng độ phì nhiêu cho đất. Nhưng trong mùa khô lớp lá khô này có nhiều nguy cơ bị cháy. Do đó cần làm vệ sinh vườn, tủ cỏ, lá khô vào sát gốc ca cao để giữ ẩm đồng thời làm nơi lưu trú cho côn trùng thụ phấn, phần còn lại nên rạch hàng chôn để chống cháy, đồng thời tăng lượng hữu cơ cho đất.
Nếu ca cao được trồng xen trên các vườn điều hoặc cây ăn quả có địa hình dốc (nhưng chủ động được nước tưới). Để chống xói mòn, ca cao cần được trồng trên các hàng đồng mức kết hợp với các bờ cản nước hoặc hàng rào cỏ Vetiver. Hàng rào chống xói mòn bằng cỏ Vetiver cho thấy có rất nhiều ưu điểm và dễ thực hiện do cỏ thích ứng rất rộng với các điều kiện môi trường khác nhau, lá dùng để giữ ẩm trong mùa khô, rễ có đặc tính xua đuổi mối và là môi trường thích hợp cho sự phát triển các vi sinh vật đất phân giải thuốc bảo vệ thực vật.
SÂU BỆNH HẠI CÂY CA CAO
Bọ xít muỗi (Helopeltis spp.)
Triệu chứng và tác hại: Chích hút nhựa trái, chồi non, cành non. Các vết chích bị thâm đen, các trái non bị chích thường héo khô, trái lớn bị chích có nhiều vết thâm phát triển dị dạng, ít hạt và nhiều nguy cơ bị nấm hại xâm nhập.
Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, tỉa bớt cành nhánh không cần thiết. Có thể phun các loại thuốc như Fenobucarb (Bassa, Bascide, Bassan), Diazinon (Basudin, Vibasu), Dimethoate (Bi 58, Bian, Dithoate). Phun thuốc vào sáng sớm lúc côn trùng di chuyển chậm chạp. Bọ xít muỗi có thể phòng trị rất hữu hiệu bằng cách nuôi kiến đen loài Dolichoderus thoracicus trong vườn ca cao.
Bọ xít muỗi có thể phòng trị rất hữu hiệu bằng cách nuôi kiến đen loài Dolichoderus thoracicus trong vườn ca cao.
Triệu chứng và tác hại: Sâu thường đục phần ngọn thân và các cành rồi đùn phân và mạt cưa ra ngoài miệng lỗ đục và rơi xuống đất. Những cành ca cao bị đục sẽ bị héo rồi chết khô.
Biện pháp phòng trừ: Thường xuyên thăm vườn để phát hiện sớm sau đó cắt các cành bị hại và đốt để diệt sâu nằm bên trong thân. Các loại thuốc được sử dụng như Cartap (Mapan, Padan, Vicarp), Fipronil (Regent, Brigant) hoặc Cypermethrin (Carmethrin, Cyper, Sherpa, Alpha Cypermethrin) xịt vào nơi sâu thích đục lỗ như đầu cành non, chồi non. Có thể pha loãng thuốc bơm vào lỗ đục hoặc nhét thuốc hạt.
Bọ cánh cứng hại lá (Adoretus spp, Apogonia spp) Bọ cánh cứng ăn lá ca cao thuộc nhiều loài khác nhau như bọ nâu, bọ xám, bọ hung kim.
Triệu chứng và tác hại: Chủ yếu phá hại vào ban đêm, ban ngày trú ngụ nơi tối hay dưới đất. Bọ ăn lá tạo những lỗ khuyết trên lá làm giảm diện tích quang hợp. Với ca cao trưởng thành sự tác hại không đáng kể nhưng cây con và cây trong giai đoạn vườn ươm ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển.
Biện pháp phòng trừ: Phun lá với các loại thuốc vị độc hoặc tiếp xúc như Carbaryl (Sevin, Carbavin, Sebaryl), Cypermethrin (Sherpa, Cyper, Carmethrin), Dimethoate (Bi 58, Bian, Dithoate) hoặc trộn vào đất thuốc Diazinon (Basudin, Vibasu) hạt theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất.
Triệu chứng tác hại: Quan trọng đối với ca cao còn nhỏ. Thành trùng gặm vỏ thân/cành còn xanh hoặc bánh tẻ, ăn lá non nhất là lá non vừa nhú khỏi chồi. Cây bị hại còi cọc, không phát triển và có thể chết. Đối với cây lớn trên 18 tháng tuổi sự tác hại của côn trùng này không nguy hiểm.
Cây ký chủ khác của câu cấu là dâm bụt vốn có rất nhiều quanh vườn ca cao. Do đó, muốn trị câu cấu có hiệu quả cần thay thế cây hàng rào này bằng loại khác hoặc phải phun thuốc cùng lúc khi xử lý cây ca cao.
Biện pháp phòng trừ: Phun các loại thuốc có hoạt chất L-Cyhalothrin, Decamethrin (Decis) hoặc Cypermethrin (Sherpa, Cyper, Carmethrin). Thuốc lưu dẫn Carbofuran (Furadan) dạng hạt cho thấy rất hiệu quả khi rải lên vùng rễ của cây ca cao. Thuốc được rễ hấp thu và vận chuyển vào thân và lá.
Triệu chứng và tác hại: Rầy mềm sống tập trung và chích hút nhựa cây trên các chồi non, lá non, trái non làm cây chậm phát triển, trái khô héo. Thường có các loài kiến sống kếp hợp với loài rầy này.
Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, có thể phun các loại thuốc như Trebon 10EC, Bassa 50EC, Mipcin 50EC, Servin 85WP theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất.
Triệu chứng và tác hại: Rệp sáp sống bám vào cuống, lá, trái, thân, quả non hay cổ rễ để hút nhựa làm cây, trái chậm phát triển và còi cọc. Rệp tiết ra chất hơi dính như mật ong nên thường có nhiều loài kiến sống kết hợp với rệp. Trường hợp có kiến đen ca cao, không cần phải phun thuốc.
Biện pháp phòng trừ: Cần chú ý theo dõi để phát hiện những ổ rệp sáp mới hình thành, tránh lây lan. Có thể diệt rệp sáp bằng cách phun các thuốc trừ sâu như Methidathion (Supracide, Suprathion), Fipronil (Regent, Brigant).
Triệu chứng và tác hại: Sâu non sống tập trung và tấn công ca cao bằng cách chỉ gặm phần thịt lá, chừa lại màng và gân lá. Sâu lớn sống rải rác và ăn khuyết lá. Sâu phá hại mạnh vào ban đêm, ngày ẩn nấp ở dưới đất, trong các lá khô, cỏ dại.
Biện pháp phòng trừ: Thường xuyên kiểm tra vườn để phát hiện kịp thời. Phòng trừ sâu bằng thuốc trừ sâu như Padan 95SP, Elsan 50EC, Ofatox 400 EC, Sumithion 50ND.
Triệu chứng và tác hại: Sâu cắn phá trên các bộ phận của cây từ lá, chồi non, hoa và trái. Đối với cây con sâu cắn lá non, chồi ngọn làm héo ngọn cây hay gây chết cành. Đối với cây lớn sâu cắn phá nụ hoa, hoa hay trái làm cho hoa trái bị hư và rụng.
Biện pháp phòng trừ: Thường xuyên kiểm tra vườn để phát hiện và phòng trị kịp thời. Phòng trừ sâu bằng thuốc trừ sâu như Cartap (Padan, Mapan, Vicarp), Phenthoate (Elsan, Nice, Forsan, Phenat), Fenitrothion (Ofatox).
Triệu chứng và tác hại: Sâu non có màu nâu xám trú ngụ trong những bao tự làm bằng cách nhả tơ kết những lá hay cành cây. Sâu non cắn phá lá và cành non, vỏ cành già và thân cây. Trường hợp phá hại nặng làm cây trụi lá, chồi non làm cây bị còi cọc.
Biện pháp phòng trừ: Thường xuyên thăm vườn để phát hiện sớm, có thể bắt bằng tay hoặc sử dụng các loại thuốc như Terex, Diptecide, Mace, Lancer.
Triệu chứng và tác hại: Sâu đục luồn quanh vỏ trái tạo các đường rãnh. Làm rụng trái non, giảm năng suất trái lớn.
Biện pháp phòng trừ: Trong trường hợp bị nặng phun thuốc có gốc cúc tổng hợp Deltamethrin (Decis, Deltaguard). Trái, vỏ trái bị sâu phải được chôn để tránh sâu hoặc trứng có sẵn trên trái phát triển thành thành trùng.
Sâu đục vỏ thân/thân (Endoclita hosei)
Triệu chứng và tác hại: Lúc đầu sâu đục thành những rãnh ở lớp vỏ cây sau đó đục vào thân cây. Mùn cưa đục từ thân kết hợp với chất keo do sâu tiết ra bao phủ các đường rãnh để bảo vệ sâu non.
Biện pháp phòng trừ: Sử dụng Fipronil (Regent, Brigant), Cartap (Mapan, Padan, Vicarp).
Chuột và sóc thích ăn lớp cơm ngọt bao quanh hạt ca cao. Thường chúng cắn phá quả ca cao bằng cách khoét lỗ để moi hạt. Khi chuột và sóc gây thiệt hại nặng cần phải tổ chức diệt trừ bằng cách dùng bả độc hoặc gài bẫy.
Mối là một trong những côn trùng chính phá hại ca cao trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, nhất là ở các vùng đất mới khai phá, gần rừng, trong vườn điều, vườn rừng hoặc vườn có cây che bóng đã thiết lập. Thiệt hại về mối có thể lên trên 50% trong vòng hai tuần lễ sau khi trồng, do đó phải chú ý phòng trừ ngay từ đầu.
Biện pháp phòng trừ: dùng thuốc trừ sâu có hoạt chất Imidacloprid (Confidor, Admire) hoặc Chlorpyrifos (Mapy, Lentrek, Pyrinex, Losban). Phun dưới đáy và quanh thành hố trồng trước khi đặt cây vào. Sau khi trồng xong phun trên mặt đất nơi trồng cây và toàn thân cây.
Lưu ý, Furadan vốn hay dùng để diệt mối nhưng không có hiệu quả khi sử dụng ở Miền Đông và Tây Nguyên.
Đây là loại sâu hại nguy hiểm nhất cho ngành trồng ca cao. Nếu không phòng trị có thể 100% trái bị tấn công. Việt Nam hiện chưa có loại sâu này, nhưng cần phải theo dõi để phát hiện và phòng trị kịp thời là rất cần thiết (có hướng dẫn sau).
Đây là bệnh chính trên ca cao. Bệnh xuất hiện mọi nơi, mọi bộ phận (lá, thân, hoa) qua mọi giai đoạn trong quá trình sinh trưởng từ vườn ươm cho đến khi thu hoạch. Bệnh phát triển mạnh vào mùa mưa, trong môi trường có độ ẩm cao. Ngoài ca cao, Phythophthora palmivora còn có các ký chủ khác như sầu riêng, cao su, bơ, đu đủ.
Bệnh phát tán từ hai nguồn chính là đất và trái bệnh: Từ đất: Nước mưa làm đất có mầm bệnh văng bám lên cây, lên lá; kiến và mối tha đất có mầm bệnh làm tổ trên thân cây; Từ trái bệnh: Bào tử phát tán do gió, nước mưa, côn trùng (bọ cánh cứng Scolytid và Nitidulid).
Biện pháp phòng trừ: Sử dụng giống kháng; Hái bỏ ngay trái bệnh đem chôn để tránh bào tử phát tán do gió, nước mưa và côn trùng; Tỉa cành hợp lý tạo thông thoáng, giảm độ ẩm dưới tán lá trong vùng thân/cành mang trái; Điều chỉnh mật độ cây che bóng thích hợp để đủ ánh sáng và thông thoáng trong vườn ca cao.
Sử dụng thuốc: Dùng thuốc gốc đồng (Champion, Kocide, Coc 85,...) hoặc Metalaxyl phun định kỳ để phòng. Khi xuất hiện triệu chứng bệnh nên phun Fosetyl-Al (Aliette, Alpine, Fungal) hoặc Metalaxyl (Ridomil, Mataxyl, Rampart).
Bệnh loét thân, nếu phát hiện sớm dùng dao cạo bỏ phần vỏ bệnh sau đó bôi thuốc gốc đồng, Metalaxyl hay Fosetyl-Al. Bệnh cũng được trị rất hiệu quả nếu sử dụng Potassium phosphonate (Agri-Fos 400, Foli-R-FOS-400) chích thẳng vào mạch gỗ thân cây.
Cách sử dụng Potasium phosphonate: Pha loãng thuốc để đạt nồng độ thuốc 200 g/l ai potassium phosphonate. Chích 20 ml/cây (cây có đường kính < 10 cm) hoặc chích 40 ml/cây (cây có đường kính 10 - 20 cm). Để phòng ngừa cần chích 1 lần/năm vào đầu mùa mưa khi cây ra lá mới. Nên chích thuốc vào buổi sáng. Nơi có nguy cơ bệnh cao, cần chích 1 lần/6 tháng. Chích thuốc cũng làm giảm tỉ lệ thối trái rất hiệu quả.
Bệnh vệt sọc đen cũng còn được gọi là bệnh VSD (Vascular Streak Dieback). Bệnh phát triển và phát tán chủ yếu khi mưa nhiều, ẩm độ không khí cao. Bào tử phát tán vào sáng sớm (3 - 9 giờ sáng) và xâm nhập vào lá non trên cành. Từ khi bào tử xâm nhập đến khi có biểu hiện bên ngoài kéo dài khoảng 2 - 3 tháng. Trong thời gian đó các đợt lá mới phát triển nên lá bệnh được nhìn thấy ở vị trí sau một đợt lá kể từ ngọn đếm ngược vào.
- Một hoặc nhiều lá nằm sau đợt lá cuối cùng có màu vàng với những đốm xanh. Đôi khi triệu chứng chỉ biểu hiện rìa lá bị khô.
- Thân sần sùi với những mụt nhỏ do bì khổng nở rộng.
- Nhiều chồi bên phát triển nhưng không bao giờ hoàn chỉnh.
Đối với cây con triệu chứng không đặc trưng như cây lớn. Thường cây con nhiễm bệnh biểu hiện bên ngoài lớn chậm, lá vàng, lá chân rụng sớm, khoảng cách giữa các lá ngắn.
Những triệu chứng nêu trên chỉ giúp người quan sát dễ phát hiện chứ chưa thể khẳng định bệnh VSD. Cần kiểm tra tiếp triệu chứng quan trọng sau:
- Lột vỏ hoặc chẻ dọc đoạn cành nhiễm bệnh thấy có những sọc đen. Triệu chứng này được dùng để đặt tên bệnh.
- Các bó mạch tại sẹo lá thâm đen nên khi cắt ngang bề mặt thấy có 1-3 đốm đen tương ứng với 3 bó mạch dẫn. Đây là triệu chứng tin cậy nhất và dễ kiểm tra để xác định bệnh khô ngược cành. Khi bệnh tiến triển mạnh cành khô và chết ngược dần từ ngọn vào.
Biện pháp phòng trừ: Biện pháp phòng chủ yếu là sử dụng giống kháng, tỉa cành thông thoáng để giảm ẩm độ không khí. Khi cành bị nhiễm bệnh, tỉa bỏ cành cách nơi có triệu chứng bệnh (sọc đen nơi mô mộc) khoảng 30 cm về phía gốc. Đối với cây con bị bệnh (giai đoạn vườn ươm hoặc 1 năm tuổi sau khi trồng) nên nhổ bỏ và thay cây khoẻ mạnh khác. Nấm không phát triển tiếp tục trên cành đã tỉa bỏ nên không cần phải chôn, đốt hoặc chuyển đi nơi khác.
Dùng Triadimenol (Bayfidan) nồng độ 2.5ml/10l nước, phun 1 tuần/lần. Theo Flood và cộng sự (2004) có thể dùng thuốc lưu dẫn Propiconazole quét vào thân cây hoặc phun vào cây con trong giai đoạn vườn ươm.
Bệnh héo rũ (Ceratocystis fimbrata)
Triệu chứng và tác hại: Khởi đầu héo rũ một vài cành, lá chuyển sang màu nâu nhưng vẫn dính trên cành, sau đó toàn bộ cây chết.
Bệnh thường xuất hiện nhiều hơn ở những cây đã bị mọt đục cành. Biện pháp phòng trừ: Để phòng trừ cần hạn chế gây ra vết thương trên cây và xử lý bằng thuốc trừ nấm như Mancozeb (Dithane, Mancozeb), Carbendazin (Carben, Carbenvil, Vicarben).
Bệnh nấm hồng (Corticium salmoncolor)
Triệu chứng và tác hại: Bệnh thường chỉ xuất hiện vào mùa mưa, ở những vườn ca cao quá ẩm và rợp do tán lá dày và mật độ cây trồng cao. Nấm tấn công ở những cành đã hoá nâu. Nấm bệnh lúc đầu có màu mốc trắng nhưng dần chuyển sang màu trắng hồng, hoặc vàng. Tên bệnh được đặt theo màu của nấm trong giai đoạn này. Đây cũng là giai đoạn nấm phóng thích bào tử và phát tán mầm bệnh. Nấm mọc sâu vào phần gỗ cành. Lá phần trên của cành nhiễm bệnh sẽ vàng và khô nhưng vẫn lưu trên cành một thời gian. Cành khô nâu và chết, lớp vỏ thân cành bị tách ra từng mảng.
Nếu điều kiện nắng khô trở lại, bệnh phát triển chậm lại và cây có thể phục hồi nhưng dễ tái phát nếu mưa trở lại mà không có biện pháp cải thiện như vệ sinh đồng ruộng hoặc xử lý thuốc.
Biện pháp phòng trừ: Để phòng trừ biện pháp chính là làm tăng độ thông thoáng của tán lá bằng cách tỉa cành hợp lý và giảm bóng che. Ở mức độ nhẹ, bệnh có thể được kiểm soát bằng cách tỉa cành thường xuyên. Cành bệnh được bỏ bằng cách cắt dưới đường ranh (phần tiếp giáp giữa vùng có nấm mọc và không) 30cm. Những cành bệnh cần được đốt bỏ. Nếu cành bệnh có đường kính lớn, nên quét lên thân các loại thuốc có gốc đồng (Champion, Fungunran, Kocide, Benlat), Propiconazole (Tilt, Zoo, Lunasa, Tiptop) hoặc (Validamycin A (Validacin, Vanicide).
Bệnh hại rễ (Rigidoporus lignosus, Ganoderma pseudoferum, Phellinus noxius, Rosellinia bunodes)
Triệu chứng và tác hại: Rễ ca cao có thể bị trắng, bị hoá nâu, hoá đen hoặc nứt cổ rễ gây ra bởi nhiều loại nấm khác nhau. Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, xử lý hố trước khi trồng, tránh trồng nơi đất khó thoát nước, tránh tổn thương rễ.
Phòng trị bằng các loại thuốc trừ nấm: Propiconazole (Tilt, Zoo, Lunasa, Tiptop), Iprodione (Rovral, Cantox) phun trực tiếp quanh gốc. Đào rễ bệnh đốt bỏ. Không trồng lại nơi có cây bệnh cho đến khi những rễ còn sót lại của cây bệnh bị mục hoàn toàn.
Triệu chứng và tác hại: Thân, cành bị nắng chiếu trực tiếp làm tổn thương mô dưới biểu bì. Sự tổn thương càng trầm trọng khi đang nắng gắt cây gặp nước (do mưa hoặc tưới). Mô tổn thương bị tạp nhiễm các loại nấm như Collectotrichum, Fuzarium,... và tảo. Tảo không làm hại cây nhưng các loại nấm hại phát triển và làm khô chết cành.
Lớp tế bào dưới biểu bì thân/cành có màu sậm như hiện tượng cháy nắng, sau thời gian bào tử màu vàng cam xuất hiện từ vùng nhiễm bệnh. Lá nhỏ, kém phát triển có màu nhạt. Cây ít hoặc không có lá non. Bệnh thường xảy ra cả mùa khô lẫn mùa mưa, đặc biệt là đối với những cây ca cao thiếu bóng che hoặc bị tỉa quá nặng để ánh sáng chiếu trực tiếp vào thân cành trong thời gian dài. Bệnh phát triển mạnh trong khoảng giao mùa nắng mưa. Ca cao ở Miền Đông và Tây Nguyên rất hay bị bệnh này.
Biện pháp phòng trừ: giữ cho thân cành đủ bóng che, thúc phân và tưới nước đầy đủ để lá mới phát triển nhanh che phủ cây, tăng tăng bóng che của cây che bóng. Củng cố hàng cây chắn gió. Xử lý cây đang bệnh bằng cách phun hoặc bôi các loại thuốc có gốc đồng (Copper-B, Champion, Copperzine, COC 85).
THU HOẠCH VÀ SƠ CHẾ CA CAO
Chỉ thu hoạch khi trái đã chín là lúc trái có màu vàng hoặc đỏ cam tuỳ theo giống. Trái chín thuận lợi cho việc lên men, hàm lượng bơ trong hạt cao và có hương thơm tốt nhất.
Trái chưa chín sẽ khó bóc hạt và khi lên men chất lượng hạt kém (hạt chai, xám). Trái chín quá dễ bị hư do sâu bệnh, chuột, sóc phá hại hoặc hạt nẩy mầm trong trái (đối với một số giống).
Dùng kéo tỉa cành hoặc dao bén để cắt cuống trái nhằm tránh làm tổn thương đệm hoa sẽ ảnh hưởng xấu tới sự ra hoa kết trái ở các vụ sau.
Một trong những kỹ thuật nâng cao chất lượng ca cao là tồn trữ trái. Trái ca cao được thu hoạch cẩn thận, tránh làm nứt dập và trữ vào nơi thoáng mát từ 7-9 ngày khi lên men có chất lượng cao nhất. Hạt khi đã tách khỏi trái cần phải ủ ngay trong ngày.
Trái được đập vào lưỡi dao gắn ngược có bề dày cố định để tránh bị hư hạt bên trong. Hạt được tách khỏi lõi trái (thai toà) là bộ phận nơi hạt dính vào, không để lõi, vỏ trái lẫn vào hạt vì người thu mua xem đây là tạp chất và sẽ hạ tiêu chuẩn sản phẩm.
Trong quá trình lên men màu của tử diệp được chuyển từ màu tím sang nâu sô cô la. Khi lên men nhiều quá trình hoá học xảy ra làm giảm vị đắng, chát và tạo các tiền chất của hương thơm ca cao. Chất lượng ca cao được quyết định phần lớn do kỹ thuật lên men.
Các phương pháp lên men/ ủ hạt ca cao:
Ủ đống: Hạt cacao được đổ đống thành hình nón trên lớp lá chuối được xếp tròn trên mặt đất. Bên dưới lá chuối kê các cành cây để tạo độ thoáng và giúp dịch nhầy chảy ra dễ dàng. Tủ kín bằng lá chuối trên bề mặt khối hạt nhằm giữ hơi nóng trong suốt thời gian ủ, nếu trời lạnh có thể phủ thêm bao. Đống hạt có thể từ 25-2500 kg hạt tươi.
Ủ thùng: Ca cao được chứa trong thùng gỗ có đục lỗ ở đáy. Chiều dài và rộng của thùng có thể thay đổi tuỳ theo lượng hạt, nhưng chiều cao khối hạt không nên vượt quá 50cm. Khối lượng ủ từ 50-1000 kg.
Ủ thúng: Lót lá chuối vào thúng tre nhưng phải để nước dễ thoát ra khỏi thúng trong quá trình lên men; đổ đầy hạt, đậy thúng lại bằng lá chuối hoặc bao gai để giữ nhiệt. Hai ngày sau khi ủ, trộn đều hạt bằng cách đổ từ thúng này sang thúng khác. Với khối lượng hạt nhỏ, ban ngày nên đặt thúng dưới ánh nắng mặt trời để tăng nhiệt độ.
Quá trình lên men kéo dài 5 - 6 ngày tuỳ thuộc vào nhiệt độ khối hạt và môi trường chung quanh. Sau khi ủ 48 giờ phải đảo trộn khối hạt lần đầu và đảo trộn lần hai sau 96 giờ (4 ngày). Quá trình lên men tốt khi khối hạt đạt từ 48 – 500C trong giai đoạn lên men hiếu khí.
Hạt sau khi lên không cần phải rửa vì sẽ làm vỏ mỏng, dòn, dễ vỡ tạo đều kiện cho nấm móc xâm nhập và phát triển. Hạt được làm khô ngay bằng cách phơi nắng hay sấy để độ ẩm từ 60% xuống khoảng 7,5 - 8%. Nếu ẩm độ hạt cao hơn 8% nấm mốc dễ phát triển, ngược lại nếu hạt quá khô, ẩm độ nhỏ hơn 7%, hạt sẽ dòn dễ vỡ. Nhiệt độ trong quá trình phơi sấy không nên vượt quá 650C, thời gian phơi sấy thường kéo dài từ 3 - 10 ngày.
Hạt khô sau khi loại bỏ tạp chất và phân loại theo kích cỡ hạt, được cho vào bao và được tồn trữ nơi khô ráo, thoáng mát. Do hàm lượng chất béo cao trong hạt nên ca cao rất dễ hấp thu các mùi lạ làm giảm phẩm chất. Hạt tồn trữ phải tránh xa nguồn khói, xăng dầu, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón,...
Nếu lưu trữ hạt ca cao lâu, cần hun trùng để trị sâu mọt đục hạt bằng phosphine (aluminium phosphide) trong 96 giờ.
Ngoài yếu tố di truyền và ngoại cảnh ảnh hưởng đến chất lượng hạt, độ chín của trái sẽ ảnh hưởng đến hàm lượng chất béo. Trái chưa chín hàm lượng chất béo thấp vì 50% chất béo được tổng hợp trong 6 tuần lễ cuối cùng.
Chất lượng hạt còn liên quan đến độ đồng đều của hạt trong một lô hàng. Thành phần vật lạ, tỉ lệ hạt lép, côn trùng sống và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật làm giảm chất lượng của lô hạt. Tiêu chuẩn về chất lượng hạt được quy định theo từng quốc gia hoặc từng hợp đồng mua bán cụ thể.
Để sản xuất được sô cô la có chất lượng cao, các nhà chế biến đều mong muốn có được hạt ca cao với các đặc tính chính như sau:
- Hạt có mùi sô cô la đặc trưng sau khi chế biến.
- Hạt không có mùi, vị lạ như mùi mốc, khói và không có vị quá chua và đắng.
- Hạt có trọng lượng lớn, độ đồng đều cao, tối thiểu 1g/hạt.
- Hạt được lên men đầy đủ, được phơi nắng để có ẩm độ 7,5 - 8%.
- Hạt không có dư lượng thuốc trừ sâu, vi khuẩn, côn trùng và tạp chất.
- Hàm lượng acid béo tự do <1%.
- Hàm lượng bơ từ 50 - 58%, bơ có độ cứng cao.
Phòng NN&PTNT Đạ Hoai
Số lần xem trang: 4199
Điều chỉnh lần cuối: 02-02-2011